Tôi Đã Trở Thành Con Mồi Béo Bở Của Bọn Lừa Đảo Trên FB Như Thế Nào


Tôi Đã Trở Thành Con Mồi Béo Bở Của Bọn Lừa Đảo Trên FB Như Thế Nào

Người nào NGHIỆP NẶNG chỉ cần nhìn vào 3 dấu hiệu này là biết ngay


Người nào NGHIỆP NẶNG chỉ cần nhìn vào 3 dấu hiệu này là biết ngay - Thầy Thích Pháp Hòa (Siêu Hay)

Nam mô a Di Đà Phật 🙏🙏🙏

Ta khóc lóc tưởng rằng mình bất hạnh
Nhưng ngoài kia còn cả tỷ nỗi buồn
Ta cứ ngỡ có mỗi mình cô quạnh
Nhưng cuộc đời đầy ắp cảnh đau thương.
Có người ước được một đôi chân nhỏ
Để bước đi trên thảm cỏ thật mềm
Có người ước sau đêm dài vò võ
Đôi mắt này họ sẽ thấy bình minh.
Những đứa trẻ chưa một lần gặp mẹ
Chỉ ước ao hai tiếng gọi: Gia Đình
Nếu ta chỉ có một ngày thật tệ
Thì đừng buồn mà hãy cố gắng lên!
Có đôi lúc ta cần ngưng giận dữ
Nhìn thoáng hơn để thấu rõ sự tình
Hãy giữ lấy niềm vui dù rất nhỏ
Giữa bão đời ta chọn sống tự tin.
Hãy theo dõi trang để cập nhật nhiều nội dung hay và ý nghĩa hơn xin cảm ơn

Muốn Được Phật Độ Phải Đầy Đủ Bốn Duyên Này


🙏🙏🙏 Muốn Được Phật Độ Phải Đầy Đủ Bốn Duyên Này_ Hòa Thượng Tịnh Không Giảng| Kênh Thích Nhuận Hóa,

I Need Husband 😊I Am Farmer girl💕am from USA

Tôi Cần Chồng 😊Tôi Là Cô Gái Nông Dân💕am đến từ Mỹ, Một người có hai cái đầu chắc là thông minh lắm nhỉ.

Không Bao Giờ Ngăn Cách - Hoàng Châu x Hồ Duy Thái


Không Bao Giờ Ngăn Cách - Hoàng Châu x Hồ Duy Thái, 🪖KHÔNG BAO GIỜ NGĂN CÁCH 🎼Nhạc và Lời: Trần Thiện Thanh,

‘Không hối hận’: Nguyễn Tiến Trung nhìn lại con đường hoạt động dân chủ


Tại một hội nghị gần đây về nhân quyền và dân chủ ở Genève, Nguyễn Tiến Trung kêu gọi sự đoàn kết của các nhà hoạt động khắp thế giới khi anh chia sẻ câu chuyện tù tội của bản thân mình ở Việt Nam. Là một trong những nhà hoạt động được nhiều người biết tới, anh trò chuyện với VOA bên lề sự kiện này về con đường đấu tranh kéo dài gần 20 năm của mình.
---

VOA Tiếng Việt - Cập nhật thông tin trung thực, đa chiều về tình hình Việt Nam, quốc tế. Tin tức Biển Đông. Phóng sự đặc biệt về nhiều đề tài: khoa học-công nghệ, chính trị, giáo dục, đời sống, xã hội, kinh tế, sức khoẻ, văn hoá, giải trí… Hỏi đáp trực tiếp 🙋 qua Facebook Live https://bit.ly/3f603Y4 và YouTube Live https://bit.ly/3D1eHwi với khách mời VOA xoay quanh các chủ đề y học, du học Mỹ, di trú Mỹ, kinh tế, khoa học, thực phẩm, môi trường. Bàn Tròn Chuyên Đề. Hội Luận Thứ Năm.

Làm Theo Cách Này Để Đến Thế Giới Cực Lạc_Hòa Thượng Tịnh Không Giảng


Làm Theo Cách Này Để Đến Thế Giới Cực Lạc_Hòa Thượng Tịnh Không Giảng| Kênh Thích Nhuận Hóa 🙏🙏🙏

Kim Âu Hà Văn Sơn nói gì về hiện tượng nhà sư Thích Minh Tuệ


Kim Âu Hà Văn Sơn nói gì về hiện tượng nhà sư Thích Minh Tuệ?
Điện Biên Phủ: Chấn thương sọ não, Góc bình luận Nhà báo Kim Âu Hà Văn Sơn: Nói gì về hiện tượng nhà sư Thích Minh Tuệ? Điện Biên Phủ: Chấn thương sọ não! Văn hóa "ăn no từ chức" là sao?

Phân tích chi tiết hồ sơ pháp lý vụ trục xuất nhà Trương Quốc Huy


LIVE: Phân tích chi tiết hồ sơ pháp lý vụ trục xuất nhà Trương Quốc Huy, và những chuyện liên quan..

Diễn Viên Thẩm Thúy Hằng - Tứ Đại Mỹ Nhân Sài Gòn Xưa


Diễn Viên Thẩm Thúy Hằng - Tứ Đại Mỹ Nhân Sài Gòn Xưa

Thẩm Thúy Hằng là một trong Tứ đại mỹ nhân của Sài Gòn thập niên 60-70 thế kỷ trước. Ngoài 3 cái tên Thanh Nga, Kiều Chinh, Kim Cương thì Thẩm Thúy Hằng có nhan sắc vượt ra ngoài biên giới Việt Nam. Vẻ đẹp và tài năng giúp bà nhận được lời mời đóng phim của các nhà sản xuất đến từ Mỹ, Thái Lan, Hong Kong, Nhật Bản, Đài Loan...

Năm 1958, bà tham gia bộ phim “Người đẹp Bình Dương”, lập tức đưa bà lên hàng ngôi sao. Cát-sê thời đó trả cho bà mỗi khi tham gia một phim nào đó lên tới cả cân vàng.

Vẻ đẹp hút hồn vừa cổ điển vừa hiện đại, vừa kiêu sa sắc sảo, vừa tự nhiên, dịu dàng khiến không biết bao gã đàn ông thời đó si mê và theo đuổi bà.
Đứng trên đỉnh cao của tiền bạc và danh vọng nhưng cuộc sống riêng của Thẩm Thúy Hằng lại khá nhiều bi kịch. Bà từng bị gia đình ép kết hôn với một người mình không yêu, để rồi cuộc hôn nhân tan vỡ và minh tinh trở thành mẹ đơn thân khi mới 24 tuổi.

Sáu năm sau, bà lên xe hoa lần thứ hai, lần này là cuộc hôn nhân hạnh phúc với người đàn ông bà yêu và kính trọng. Chính vì vậy nên sự ra đi của ông vào năm 2003 là mất mát to lớn đối với Thẩm Thúy Hằng, bà lẻ bóng từ đó.
Đêm 6/9/2022, bà qua đời tại nhà riêng ở TP.HCM, hưởng thọ 82 tuổi.

Tìm hiểu Ngày Sanh của Đức Phật Thích Ca


Trong một cơ hội trước, tác giả đã có dịp trình bày về năm sanh của đức Phật ("Tìm hiểu Năm sanh xác thật của Đức Phật Thích-ca", Tạp chí Hoa Sen, California). Như ta đã thấy, truy tầm năm sanh của đức Phật rất khó, chưa ai tìm ra được dữ kiện chính xác, khó chối cãi về năm sanh của đức Thích-ca. Về ngày sanh của đức Phật cũng vậy, chỉ dựa trên truyền thống.

Một điểm khác cần được lưu ý là đạo Phật Bắc tông Mahayana thiết lễ Đản sanh riêng biệt, khác với các ngày lễ khác của đức Phật như lễ Thích-ca thành đạo, lễ Thích-ca nhập niết bàn. Đạo Phật Nam tông Theravada thiết lễ Đản sanh chung với các lễ Thành đạo và Nhập niết bàn, gọi là đại lễ Visakha, danh từ Hán Việt là Tam hợp. Việc này liên hệ với quan niệm giáo lý Theravada, ta sẽ có dịp nói ở sau.

Tài liệu cổ nhất về lễ Đản sanh:

Sau Thế Chiến Hai, Hi The Pali Text Society ở Luân Đôn là tổ chức sưu khảo về đạo Phật quy mô nhất, tiếp tục chương trình nghiên cứu và cọng tác với Viện Đại học Colombo ở Tích-lan để dịch thuật, giảng giải các tài liệu cổ văn Pali trên các bia đá, lá cót... tại các chùa. Năm 1972, học giả tì-kheo Isabel Horner, chủ tịch Hi The Pali Text Society công bố mt số tài liệu mới tìm được trong quốc sử Mahavamsa của nước Tích Lan. Mt tài liệu nói về lễ cầu mưa Gangarohana là mt tập tục của dân Tích Lan theo đạo Phật ngày nay còn tồn tại từ vùng quê đến thành thị. Mt tài liệu khác quan trọng hơn nói về lễ Đản sanh của đức Phật. Dưới triều vua Dutthagamani (101-77 trước Tây lịch), quốc sử ghi chép lễ Đản sanh do nhà vua thiết lễ cầu nguyện, có cuc rước kiệu tượng đức Phật do mt nghìn thanh niên cầm cờ kéo liễn đi h tống.

Thế nhưng tài liệu này không thể xem là tài liệu cổ nhất. Ta phải trở lại các trụ đá Asoka (đại đế A-dục). Đức Phật mất (nhập niết bàn) năm 544 trước Tây lịch. Hai trăm năm mươi năm sau, nước Ấn Đ có vua Asoka hoằng dương đạo Phật. Vua cho khắc trên trụ đá và vách đá các bổn ngự chỉ tuyên dương sự tích và những lời răn dạy của đức Phật. Cho đến bây giờ, các nhà khảo cổ đã tìm ra được 35 di tích ngự chỉ, đánh số, khám đọc, và giải thích cặn kẽ. Ngự chỉ số Bốn, tìm được tại núi Kandahar, ngày nay thuc đất Afghanistan, ghi lời dạy của nhà vua cho con cháu phải tiếp tục phụng thờ đức Phật và dặn dò mỗi năm ngày lễ Đản sanh, phải tổ chức trọng thể, thiết lập cuc rước kiệu đức Phật. Ngự chỉ số Sáu ở núi Girnar, miền Tây Ấn Đ ghi rõ hơn cách lập kiệu để rước tượng và di tích đức Phật, khi tổ chức lễ Đản sanh. Như vậy, lễ Đản sanh đức Phật đã được thiết hơn hai ngàn ba trăm năm trước, đặc biệt huy hoàng dưới triều đại vua Asoka là người đã dựng lên 84000 ngôi tháp thờ Phật.

Lễ Đản sanh tại các quốc gia Tây Vực

Dưới thời đại đế Asoka, đạo Phật đi vào các quốc gia ở miền Vịnh Địa trung hải và các quốc gia ở miền Bắc và Tây Bắc nước Ấn Đ. Từ Ấn Đ sang Trung Hoa, phía Đông Bắc có dãy núi Hy-mã-lạp-sơn là mt bức trường thành bằng thép ngăn cản lưu thông. Phía Tây Bắc, dọc theo sườn núi Kunlun sát vào hồ lớn Alma Ata là mt số đô thị như Kashgar, Yarland, Chokkuta và Khotan. Cao hơn trên phía Bắc, dọc theo sườn núi Tienshan (Thiên sơn) là đất Thổ-nhỉ-kỳ tư-thản (Chinese Turkestan), gồm bốn tiểu quốc cùng chung văn hóa là các nước Aksu (còn gọi là Baruka), Kucha, Karashar (ngày nay là quận Yen-ki thuc Trung-hoa), và Turfan (ngày nay gọi là Kao chang). Các quốc gia này kết thành mt trục gọi là con Đường Tơ Lụa, trục giao thông căn bản giữa Trung-hoa và các nước Phương Tây ngày đó. Từ đầu thế kỷ Hai-mươi, các phái b khảo cổ Tây phương khai quật các đng đá nằm trên trục Đường Lụa như Huân tước Aurel Stein, Albert Grunwedel, Paul Pelliot (thuc Trường Viễn Đông Bác cổ Hà Ni) Các công trình khảo cổ này phát xuất từ hai quan điểm tranh đua nhiều khi đi gần đến chỗ thù nghịch của hai trường khảo cổ La tinh và Anglosaxon, lại cũng đã đi tới mt số kết luận rất giống nhau. Những điểm kết luận đó có thể tóm tắt làm ba mục: thứ nhất là các dân tc sống trên con Đường Lụa từ hai mươi thế kỷ trước đã thấm nhuần đạo Phật rất sâu sắc; thứ hai là đạo Phật của các sắc dân này mang nặng tập tục Đại thừa Mahayana; và thứ ba -- điều quan trọng đối với người tìm học Phật -- là các tài liệu văn tự của các bậc cao tăng Trung-hoa "đi Tây vực tìm học đạo, đã quan sát tận chỗ, viết thành sách" để lại, đã được chứng minh là những tài liệu rất sát với "sự thật khoa học" ta quan niệm ngày nay.

Bởi lẽ đó mà ta phải lục soát trong tài liệu văn tự của các nhà sư Trung Hoa đi Tây vực (Ấn Đ) thỉnh kinh nói về lễ Đản sanh. Các nhà khảo cổ tìm được tài liệu cổ nhất liên hệ tới lễ Đản sanh trong cuốn sách của Thầy Pháp Hiển (Fa-Hsien). Thầy là mt vị cao tăng người Trung-hoa lần đầu tiên hành hương qua đất Phật ở Ấn Đ vào cuối thế kỷ thứ Bốn, ở lại 16 năm học đạo (399-414 TL), để lại cuốn sách Pháp Hiển truyện, còn gọi là Phật quốc ký, có bổn dịch tiếng Pháp của Abel Remusat (Foe Koue ou Relation des Royaumes Bouddhiques, Ernest Leroux, Paris, 1836).
Thầy Pháp Hiển theo con Đường Tơ Lụa, đến đất Khotan mà thầy phiên âm là Cổ sơn, ngày nay là thủ đô của khu tự trị Tân Cương (Uighur). Khi ghé qua Khotan, thầy được tham dự buổi lễ Phật đản được tổ chức rất trọng đại. Dân chúng chuẩn bị lễ Phật đản từ ngày mồng mt tháng Tư (thầy dùng âm lịch Trung Hoa), kéo dài tới ngày 29 tháng Tư. Cuc rước kiệu rất vĩ đại, xe kiệu cao mười mét, trần thiết lng lẫy, ở giữa đặt tượng đức Phật sơ sinh, có vua và hoàng hậu đất Khotan theo nghênh giá.
Thầy Pháp Hiển tiếp tục hành trình xuống đất Ấn Đ vào thành Patalipatra (thầy phiên âm là thành Ba-tra-li phất) ngày nay gọi là thành phố Patna (Hoa thành). Mt nghìn năm trước nơi đây là kinh đô của vương quốc Maghada (Ma-kiệt-đà), láng giềng của quê hương đức Phật, sáu trăm năm trước, đây là nơi đóng đô của đại đế Asoka. Thầy Pháp hiển được chứng kiến và tả lại đầy đủ chi tiết mt buổi lễ Phật đản, vào ngày mồng tám tháng Hai âm lịch. (Đọc Nguyễn phúc Bửu-Tập, "Tìm hiểu Lễ Rước Kiệu Phật và Lễ Tắm Phật", Hoa sen số 23, California 1994).

Cũng trong kho sách Đại thừa ở Trung Hoa, mt tài liệu có liên hệ đến lễ Đản sanh tìm thấy trong cuốn Đại Đường Tây Vực ký của thầy Huyền Trang. Thầy tả lễ Đản sanh thầy được tham dự ở Kucha (tiếng Pháp viết là Koucha, cách phiên âm mới là KuChe). Kucha ngày xưa là mt ốc đảo lớn nhất nằm ngay trên con Đường Tơ Lụa, là mt trục chánh con đường đạo Phật du nhập vào đất Tàu. Thầy Huyền Trang gọi đất Kucha là Dao Tần; ông có cảm tình với đất này vì nơi đây là quê hương của Cưu-ma-thập (Kumarajiva), người đã đóng góp nhiều nhất trong việc phiên dịch 400 b kinh từ chữ Sanskrit sang chữ Hán (thế kỷ thứ Năm T.L.). Lễ Phật đản tại Kucha cử hành vĩ đại, có cuc rước kiệu gồm mt nghìn chiếc xe hoa dựng tượng Phật. Ngày lễ Đản sanh tại Kucha lại thiết vào ngày thu phân, tháng Chín, ngày 22. Tại Tây tạng (Tibet), trước khi bị Trung-hoa cọng sản cưỡng chiếm, nơi đây là đất Phật. Niên lịch Tây tạng ghi ngày lễ Đản sanh là ngày 15 tháng Giêng âm lịch, là ngày quốc lễ lớn nhất trong năm, gọi là lễ Son lan chen po (Lễ Đại nguyện), liên hoan từ ngày mồng bốn cho đến ngày 21 tháng Giêng. Đêm Đản sanh, tại thủ đô Lhassa, mỗi cơ sở công hay tư, mỗi gia cư đều treo đèn, kết hoa. Đức Hoạt Phật (Phật sống, Đạt-lai lạt-ma) ngồi trên kiệu có ban quốc nhạc và đi binh bảo giá tháp tùng, đi viếng và chấm điểm từng đơn vị trong thủ đô, nơi nào có trần thiết lễ. Dân chúng từ mọi nơi trong nước, và cả ở ngoài nước như Mông Cổ, kéo về thủ đô tham dự lễ Đại nguyện, cầu xin đức Phật ban ơn mt năm đầy hạnh phúc.

Lễ Đản sanh tại Trung Hoa :

Nước Trung-hoa cổ, có b môn sử ký chép sự việc theo nguyên tắc trung thực và theo thời gian. Theo thứ tự năm tháng, ta đọc trong Pháp uyển Châu lâm, vào đời Đông Tấn (318-420 TL) có người Thái Kiều đúc năm tượng Phật hài đồng để dùng vào lễ Rước Kiệu, trong ngày lễ Đản sanh. Mt tư liệu cổ khác tìm thấy trong sách Cao tăng truyện, viết vào thời Ngũ hồ, cũng tại Đông Tấn (319-351 TL), có người m đạo tên là Thích L, mỗi năm vào ngày mồng tám tháng Tư đến chùa làm "lễ chiêm bái đức Phật ra đời," bằng cách tắm tượng Phật bằng nước cam lồ. Học giả đạo Phật Trung-hoa cho là truyền thống đản sanh tại nước Tàu bắt đầu từ các chi tiết này. Kế đến, trong sách Ngụy Tấn Nam Bắc triều luận tập có đoạn ghi vua Thái Võ đế nhà Ngụy (408-452 TL) nhân ngày Đản sanh, ngự giá ra ngoài thành, thiết lễ rước kiệu Phật. Vua và hoàng hậu đứng trên đài rải hoa lên tượng Phật sơ sinh lúc đoàn kiệu đi qua. Mt tư liệu cổ khác, theo thứ tự thời gian, đọc được trong Phật tổ Thống ký, kể chuyện vua Cao tổ Võ đế nhà Tống tên là Lưu Dũ, năm 462 TL, ngày mồng tám tháng Tư, thiết lễ Đản sanh ngay trong cung điện nhà vua. Cũng trong Phật tổ Thống ký, ta lại thấy vua Hiếu Võ nhà Tây Ngụy (467-499 TL) cho lệnh rước tượng Phật trên kiệu từ các ngôi chùa lớn ở Lạc Dương vào cung đình, dâng hương hoa làm lễ Đản sanh ngày mồng tám tháng Tư, và ra lệnh mỗi năm từ đó phải thiết lễ Phật đản như vậy. Lại sách Lạc Dương Già Lam ký, mỗi năm trước mt hôm ngày Phật đản mồng tám tháng Tư, các chùa trong vùng Lạc Dương phải rước tượng Phật trên kiệu đến Thanh Minh thiền viện, tất cả hơn mt nghìn tượng Phật để cử hành đại lễ ngày hôm sau. Buổi lễ được cử hành rất tưng bừng náo nhiệt đến nỗi mt nhà sư từ Tây Vực đến viếng Lạc Dương kể lại là "(ngày Phật đản) hoa vàng ngời sáng dưới ánh dương, lọng hoa lợp kín như mây phủ, cờ phướn giăng lên như rừng cây, trầm hương xông lên dày đặc như sương phủ, tiếng kinh và tiếng nhạc rung chuyển đất trời" (Kenneth Chen, "Buddhism in China", Princeton 1973, trang 279).

Đời nhà Đường ở Trung Hoa là thời đại hoàng kim của đạo Phật tại châu Á. Ta theo dõi được là dưới đời nhà Đường (được ghi chép trong Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao tăng truyện của thầy Nghĩa Tịnh (I Tsing, 635-713 TL) và đời nhà Tống (được ghi chép trong Đại Tống chính biên) tức là từ năm 618 đến năm 1279, lễ Đản sanh được thường xuyên cử hành tưng bừng trong các chùa lớn nhỏ trong dân gian. Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương. Vua và hoàng hậu ngự ra cửa An phúc đón võng Phật vào nhà Thái miếu; dân chúng hân hoan nổi nhạc đốt pháo vui mừng. Dưới đời Đường, lúc đạo Phật cực thịnh, người ta đem từ Ấn Đ sang ít nhất năm di tích xá lợi, của đức Phật. Chùa Pháp môn ở phía Bắc Kinh thành Lạc Dương có mt lóng xương tay của đức Phật; bốn chùa khác trong thành mỗi chùa thờ trên tháp mt chiếc răng của đức Phật. Mỗi năm, vào ngày Phật đản hay ngày rằm tháng Bảy, di vật này được chưng bày cho dân gian lễ bái chiêm ngưỡng. Riêng di tích xá lợi lóng xương tay ở chùa Pháp môn thì hằng năm, ngày lễ Phật đản, lại được rước trên kiệu vào cung đình cho nhà vua hành lễ. Mỗi lần rước kiệu lễ Phật đản là mt cơ hi đình đám quá lớn, dân chúng tham gia quá sức nháo nhiệt, lắm khi thành hỗn loạn. Vì lý do đó, Hàn Dũ, mt nhà Khổng học quá khích chống đạo Phật, năm 819 viết bài sớ xin nhà vua bãi lệ Phật đản (Kenneth Chen, đã dẫn, trang 280).

Đầu thế kỷ thứ Mười TL, tại Huệ Lâm thiền viện phủ Khai Phong, vị trụ trì là đại sư Nguyên Chiếu, muốn làm giảm mối căng thẳng giữa đạo Nho và đạo Phật nên chấn chỉnh nghi lễ của đạo Phật, đặt ngày Phật đản, lễ Tắm Phật (còn gọi là Quán Phật) vào ngày mồng tám tháng Tư. Lễ Rước kiệu cũng chỉ làm trong khuôn viên chùa. Chi tiết sự việc đều ghi trong sách Đông Kinh Mng Hoa lục chú (Đông Kinh là phủ Khai phong).

Dưới đời Nguyên, người Mông Cổ là những người m đạo Phật, nên vẫn giữ tục lệ thiết Phật đản lớn vào ngày tám tháng Tư. Người khai sáng ra nhà Minh, Chu Nguyên Chương, lúc thiếu thời đi tu ở chùa, nên khi lập quốc, tôn thờ và chỉnh đốn đạo Phật. Dưới đời Thanh, người Mãn Châu vào chế ngự Trung Hoa cũng là những người m đạo Phật, nên giữ các tập tục làm lễ Phật đản đã có từ nghìn năm trước, cho tới khi tiếp xúc với Tây phương.

Nghi lễ của đạo Phật tại Trung Hoa, từ cuối thế kỷ Mười chín cho đến cuc Cách mệnh Cng sản được mt nhà học giả phương Tây Holmes Welch mô tả kỹ càng trong sách The Practice of Chinese Buddhism 1900-1950 (Harvard University Press, 1973). Trước Đại hi Kiết tập Sangiti lần Sáu (ta sẽ nói ở sau), người Trung Hoa cử hành lễ Phật đản vào ngày tám tháng Tư, tại chùa đông đúc thiện nam tín nữ tham dự, nghi thức được tả rõ trong sách Holmes Welch (sách dẫn, trang 109 và tiếp theo). Nghi lễ tại các chùa lớn tại Trung Hoa ngay cả trong thời kỳ Dân quốc, đều cử hành theo quy luật ghi trong sách Bách Trượng Thanh quy có từ đời Tống, và được thay đổi ít nhiều dưới triều Minh, gọi là sách Chỉnh Huấn Bách Trượng Thanh quy, dùng làm khuôn thước lễ nghi.

Lễ Đản sanh tại Nhật Bổn:

Nước Nhật Bổn tiếp nhận đạo Phật vào thế kỷ thứ Sáu và người Nhật phát huy đạo Phật vững mạnh cho tới ngày nay. Theo Sử ký Nhật Bổn Nihonshoki, buổi lễ Đản sanh đầu tiên được thiết vào ngày mồng Tám tháng Tư năm 606 TL (người Nhật dùng dương lịch, nhưng các lễ Phật nhiều lúc vẫn theo âm lịch Trung Hoa). Nữ hoàng Suy-Cơ (Sui-Ko, 593-628 TL) và chồng là Thánh Đức thái tử (Shokotu) rất m đạo Phật, ra lệnh cho tất cả các chùa, trong dịp lễ Đản sanh phải thiết lễ và phát chẩn. Trong các chùa lớn và đền Thần đạo tại Nhật ngày nay, mt số tượng Phật đản sanh (hình tượng đức Phật lúc mới sanh, mt tay chỉ xuống đất, mt tay chỉ lên trời, miệng đọc câu "duy ngã đc tôn"), tạc từ thời đại Nại lương (Nara) vẫn còn giữ được nguyên vẹn, làm bằng chứng là lễ Phật đản đã được cử hành trong các thế kỷ Bảy, Tám tiếp theo. Từ thế kỷ Tám đến thế kỷ Mười hai (triều đại Bình An, Hei-an, 749-1185 TL), đạo Phật ảnh hưởng mạnh vào sinh hoạt xã hi và văn hóa nước Nhật, các buổi lễ Phật càng được cử hành lớn, dựa vào hoàng gia và quý tc.

Qua triều đại Kiếm thương (Kamakura, 1185--1335) Phật giáo Nhật-bổn bắt đầu nhận chân những mối bất lợi vì lễ bái cúng tế hào nhoáng gây ra và Thiền tông trở nên hưng thịnh. Thêm vào đó là mối cạnh tranh với Thần đạo bây giờ có nhiều khuynh hướng thực tiễn ái quốc, nên Phật giáo phải nhẹ việc phô trương thanh thế bên ngoài, vì vậy càng giúp cho Thiền tông nẩy nở mạnh hơn, và các buổi lễ Phật phải cử hành đơn giản hơn. Ta nhận thấy sự kiện này trong mt tập ký ức của Koka Shiren: "Trong nhiều năm, ngay tại thủ đô, người ta thiết lễ Phật đản vào ngày mồng Sáu để tránh mt ngày lễ lớn Thần đạo vào ngày mồng Tám tháng Tư." Trong mt bổn Đại tự Nhật ký của chùa Kenchoji do Đạo lan Đan khê (Doryu Rankei) viết năm 1249, rõ ràng và hàm ý châm biếm cách thức thiết lễ Đản sanh nhum màu Thần đạo: "(Năm nay) ngày Phật đản, lễ tắm Phật do các vị phu nhân 'shoguna' (vợ của các vị chính quyền tướng quân) phụ trách, gây ra nhiều điều lạ mắt. Ngày xưa (vào lễ Phật đản) có bao nhiêu chi tiết đẹp ý đẹp lòng, như lễ cắm hoa. Ngày nay kiểu cách mới được đem vào chùa, làm lạ tai lạ mắt người theo Phật." Sau đó, có lẽ chính quyền Võ sĩ đạo muốn tránh quần chúng dị nghị, nên từ thế kỷ Mười ba, tổ chức buổi lễ Thần đạo vào ngày mồng Chín, dành ngày mồng Tám cho các chùa và dân chúng làm lễ Đản sanh. Gần đây hơn, ta đọc được trong Nhật Bổn Niên giám Ký sự 1953 mt đoạn viết về lễ Đản sanh: "Mỗi năm trên toàn quốc, vào ngày mồng tám tháng Tư (lễ Phật đản) dân chúng đi hái mọi loại hoa rừng, cắm vào cành tre vót nhọn, làm lễ Phật. Các bó hoa này gọi tên là hoa hướng thiên đường (tentobana), hay là hoa tôn quý (takahana)". Cũng vì tục lệ đẹp đẽ này mà tại Nhật, ngày tám tháng Tư còn gọi là ngày Lễ Hoa. Ta cần nhắc thêm là người Nhật m đạo tin là nhân loại sẽ được hoàn toàn cứu rỗi trong tương lai khi đức Phật Di Lạc ra đời, và nếu mỗi năm thành tâm thiết lễ Phật đản, thì ngày đức Phật Di Lạc hiện đến sẽ gần hơn. Vì vậy, mà ngày tám tháng Tư lại có thêm tên là ngày Nguyện cầu (Ryu ye-e), tên của mt tông phái tại Nhật thờ Phật Di-lạc.

Một biến cố Phật đản liên hệ đến tổ chức Gia đình Phật tử Nhật cần nhắc lại đây. Gia đình Phật tử Nhật gồm thiếu nhi và thanh niên hoạt đng rất mạnh. Trong cuc canh tân nước Nhật, cuối thế kỷ Mười chín do đại đế Minh Trị Thiên hoàng lãnh đạo, đạo Phật vì tôn chỉ chung hòa bình, bị nghi ngờ là chống giới quân phiệt, lực lượng nồng cốt ủng h nhà vua. Gia đình Phật tử Nhật, nhờ hoạt đng khéo léo đã làm mối giây liên lạc giữa đạo và phong trào quốc gia võ sĩ đạo. Năm 1912, ngày Phật đản mồng tám tháng Tư, Gia đình Phật tử cử hành lễ tại công viên Asakusa Park, hi họp tất cả đại biểu đoàn viên trong nước, lấy tên buổi họp đoàn là Hanamatsuri. Từ đó, hanamatsuri được tổ chức mỗi năm, ngày họp bạn của nhi đồng và thanh niên toàn nước Nhật nhân ngày lễ Phật đản.

Lễ Đản sanh tại các nước thờ Phật giáo Theravada:

Tại các nước thờ Phật giáo Nguyên thủy, ngày Phật đản gọi là Visakha Puja (chữ Sanskrit viết là Vaisakha; Tích Lan: Vesak; Cao Mên: Vissakh bochea; Thái Lan: Vaishaka Puja; Lào: Vixakha bouxa). Lễ này kỷ niệm ba biến cố quan trọng trong đời đức Phật: đản sanh, thành đạo, và nhập niết bàn vào mt ngày... Chữ Nho ta gọi là lễ Tam Hợp. Người Phật tử phái Nguyên thủy tin là đức Phật đã chọn sanh ra đời, thành đạo và mất vào cùng mt ngày. Nói chung, tại Đông Nam Á Nguyên thủy, Visakha là ngày quốc lễ nhưng được thiết trong khuôn viên chùa (vat, wat). Lễ được thiết vào ngày trăng tròn, giữa tháng Tư và tháng Năm dương lịch. Trong dịp lễ, dân chúng tụ họp tại chùa, đọc kinh, nghe thuyết giảng về đời sống của Thích Ca. Tại Thái Lan, chẳng hạn, buổi thuyết giảng pathama-sambodhi, bắt đầu từ trưa, kéo dài suốt đêm. Bài giảng kể lại lễ thành hôn của vua Tịnh phạn và hoàng hậu Maya (vương phụ và vương mẫu của đức Phật), đời sống lúc trẻ của đức Phật, quyết định đi tu cho tới khi thành đạo, hoằng Pháp và nhập diệt. Bài giảng kết luận nêu lên các nguyên do đạo Phật bị tru diệt tại Ấn Đ, để cho tín đồ suy nghĩ đừng phạm vào lỗi lầm cũ mà mất đạo.

Tại Ai Lao, lễ Tam hợp còn gọi là ngày Buon Bang Fay, có nghĩa là Hi Pháo. Trong năm, Hi Pháo là ngày lễ vui nhn nhất. Các chùa thi nhau làm pháo, cùng mt loạt ban đêm đốt lên, xem chùa nào đẹp nhất lãnh thưởng, làm trò vui cho dân chúng.
Tại Nepal (người Tàu phiên âm là Nê-bạc-nhỉ) đạo Phật pha trn gắn bó với Ấn Đ giáo, nhưng Phật đản vẫn là mt ngày quốc lễ, gọi là Bahiravajatra, thiết vào ngày trăng tròn tháng Năm dương lịch. Vào ngày lễ, dân chúng mổ trâu bò làm tiệc, và nhảy múa suốt đêm ngoài l.

Tại Sri-Lanka (Tích Lan), lễ Phật đản gọi là Vesak, là ngày quốc lễ trọng đại nhất trong năm, vào ngày trăng tròn tháng Năm. Như trên đã nói, sử Tích Lan Mahavamsa chép là "lễ Đản sanh được thiết từ ngày đạo Phật được hoàng tử Mahinda, con trai của đại đế Asoka vâng lệnh vua cha đem đạo của đức Thích Ca vào nước Sri-Lanka. Bắt đầu từ thế kỷ thứ Bốn, lễ được chính thức cử hành mỗi năm, có cuc phát chẩn lớn cho dân nghèo và cuc dâng y bát cho người tu sĩ. Người Anh đến thôn tính nước Sri-Lanka năm 1815, chịu áp lực của các giáo hi truyền giáo Tây phương, ra lệnh bỏ tục lệ Vesak, làm cho dân bị trị mất tục lệ cúng Phật.

Cuối thế kỷ Mười-chín, nhóm lên phong trào kháng Anh do Phật giáo đề xướng, lấy chủ đề là Chấn hưng Phật giáo. Buổi lễ Vesak lần đầu tiên được tái lập sau bảy mươi năm bị chính quyền Anh cấm đoán, cử hành vào ngày 17 tháng Tư năm 1885. Mt người Hoa Kỳ thờ Phật giáo, Đại tá Henry Steele Olcott, trong cuốn ký ức Old Diary Leaves thuật lại là phong trào có sáng kiến lập mt lá cờ Phật giáo gồm sáu màu sắc thoát ra từ hào quang chiếc áo đức Phật, dùng để tượng trưng ý niệm hợp đoàn của người theo đạo Phật. Lá cờ này từ đó được Phật giáo thế giới nhìn nhận là lá cờ của đạo Phật, dùng trong mọi quốc gia, đặc biệt vào ngày Phật đản.
Tại Nam Việt Nam, tám mươi năm sau, có lẽ vì không để ý tới cái lý do tượng trưng thiêng liêng này của lá cờ Phật giáo đã gây ra sự sụp đổ của nền Đệ nhất Cng hòa. Phật đản tại Sri-Lanka gồm ba lễ lớn: atasil là lễ cầu nguyện; dan-sai, lễ cúng thực phẩm cho tăng ni và phát chẩn cho đại chúng; và thứ ba là đại lễ liên hoan: treo cờ, kết hoa, vui chơi suốt mấy ngày đêm trong nhà, ngoài phố. Ở Sri-Lanka còn có mt tục lệ rất đẹp là mỗi năm vào ngày Phật đản Vesak, mỗi người gởi thiệp chúc mừng thăm viếng nhau, tương tự như tục trao đổi thiệp mừng của người theo đạo Cơ-đốc, nhân ngày đức Chúa Christ giáng sanh.

Kết luận:

Ta đã duyệt qua các truyền thống lựa chọn ngày lễ Phật đản của hai phái Đại thừa và Nguyên thủy. Mối thắc mắc ngày mồng tám tháng Tư có đúng là ngày sanh của đức Phật hay không cũng được giải tỏa. Nước Ấn Đ không dựa vào hệ thống biên niên để viết sử nên ta không tin tưởng vào ý niệm ngày tháng của Ấn Đ. Người Trung Hoa vốn chung thực tiễn, lại chú trọng sử ký nhiều hơn, cũng đã chấp nhận truyền thống Ấn Đ hoàn toàn vì đức tin. Ta có thể dẫn chứng cớ trong Ngọc Phật cung tự kinh của thầy Nghĩa Tịnh (I tsing, đã dẫn ở trên):

"Lý do (người xưa) đã lựa mồng tám tháng Tư làm ngày Phật đản, vì qua mùa xuân cho đến mùa hạ, mọi tai ương đều chấm dứt, tạo vật thức tỉnh sống lại, không còn chướng vật nào ngăn chận nẩy nở; và khí trời cũng vậy, không lạnh quá không nóng quá. Cho nên ngày đó là ngày thích hợp nhất để làm lễ Đản sanh."

Như vậy, đọc lại lịch sử và nhận định qua các truyền thống, ta có thể kết luận không sợ sai lạc nhiều là ngày Đản sanh đã được lựa chọn để thiết lễ, và chưa ai chứng minh được ngày nào đích là ngày sinh nhật đích xác của đức Phật. Thật ra, không chỉ riêng với đạo Phật mà đối với mt tôn giáo trẻ hơn đạo Phật như đạo Cơ đốc, ngày sanh của đức Chúa Christ cũng đã được chứng minh từ lâu không phải chính xác là ngày người Tây phương làm lễ Giáng sanh). Thiết tưởng vấn đề trọng đại là cử hành lễ, chi tiết ngày tháng người xưa không cố chấp xem là quan trọng.

Mt điểm cuối để kết luận bài khảo sát nhỏ này về mặt triết lý, siêu hình và hướng linh là việc giải thích vì sao ngày trăng tròn tháng Vassa của lịch Ấn Đ (từ giữa tháng Tư sang giữa tháng Năm dương lịch) được chọn làm lễ Đản sanh. Trước tiên là vì truyền thống này đã có từ lâu trong trường Nguyên thủy Theravada. Như trên đã nói, người theo Phật giáo Nam tông tin là đức Phật đã chọn ngày ra đời, thành đạo, và nhập niết bàn cùng vào mt ngày. Lại còn nhiều lý do để giải thích việc lựa chọn. Lý do thiết thực hơn cả là vì niên lịch Phật giáo thiên về âm lịch và ngày xưa, Visakha là ngày đẹp nhất trong năm. Mùa mưa bắt đầu, tu sĩ phải tập họp vào mt nơi để tu học, và ngày visakha là ngày khởi đầu giai đoạn hợp đoàn. Lại nữa, mưa bắt đầu, cỏ cây sống lại, sinh vật cũng bắt đầu nẩy nở, người tu sĩ phải tránh di chuyển để tránh sát sinh. Visakha khởi đầu cuc chuẩn bị vào hạ, người tu sĩ Theravada sẽ an cư kiết hạ sau Visakha, tránh các cuc sinh hoạt náo nhiệt.

Sau Thế Chiến Hai, biến cố trọng đại nhất trong lịch sử thế giới là việc hình thành các quốc gia đã thoát ra được ách thực dân của người phương Tây. Mt trong những ước vọng tiềm tàng của các dân tc mới thâu hồi được tự do là tái lập vị thế tôn giáo cổ truyền của họ, đã bị chính quyền người Tây phương hiếp đáp quá nhiều trong hơn mt trăm năm trước. Mọi tôn giáo muốn tồn tại trong sinh hoạt dân gian, phải được tổ chức, và tín đồ phải biết khép cánh hỗ trợ. Vì lẽ đó mà trong thập niên năm mươi, tín đồ Phật giáo đã tổ chức Đại hi kiết tập (sangiti) lần Sáu tại Miến Điện. Sangiti là đại hi quy tụ các nhà lãnh đạo Phật giáo để san định kinh sách và quyết định cương lĩnh cấp thời của đạo. Đại hi chọn lá cờ Phật giáo và quyết định lấy ngày trăng tròn từ giữa tháng Tư sang giữa tháng Năm dương lịch làm ngày khánh lễ Đản sanh đức Phật Thích Ca. Tất cả quốc gia tham dự Đại hi Sangiti lần Sáu đều thỏa nhận quyết định thiết lễ Visakha vào ngày trên. Tục lệ tại Việt-nam cũng đã dần dần hướng tới dùng ngày Visakha làm ngày lễ Đản sanh của đức Phật, do quyết định của Giáo hi Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Thế-Kỷ 21, No. 109, May 1998, California, USA

Tân Chủ tịch nước Tô Lâm tuyên thệ, ông Nguyễn Phú Trọng vắng mặt


Tân Chủ tịch nước Tô Lâm tuyên thệ, ông Nguyễn Phú Trọng vắng mặt | Truyền hình VOA 23/5/24

Niệm Phật 3 Ngày Tự Tại Báo Trước Ngày Giờ Vãng Sanh Tây Phương


Niệm Phật 3 Ngày Tự Tại Báo Trước Ngày Giờ Vãng Sanh Tây Phương_ Hòa Thượng Tịnh Không Giảng 🙏🙏🙏, Nam mô a di đà phật,

THỜI GIAN Ở ĐỊA NGỤC NHƯ THẾ NÀO 🙏


Bạn Có Biết? 1 ngày Ở Địa Ngục = 2100 Năm Ở Trần Gian, Vậy Từ Ngày Đức Phật Thích Ca Đến Nay Là Dưới Địa Ngục Chưa Được Một Ngày,🙏,

ĐÊM TÂN HÔN CHỒNG TÁ HỎA BỎ CHẠY VÌ...


ĐÊM TÂN HÔN CHỒNG TÁ HỎA BỎ CHẠY VÌ...BIẾT NÓI GÌ BÂY GIỜ. QUÁ BI HÀI,

Quả Báo Của Người Thường Hảm Hại Người Thiện_ Hòa Thượng Tịnh Không


Quả Báo Của Người Thường Hảm Hại Người Thiện_ Hòa Thượng Tịnh Không Giảng | Kênh Thích Nhuận Hóa 🙏🙏🙏, Nam mô a di đà phật,

Patrick Hernandez // Born to Be Alive LET'S DANCE


Patrick Hernandez // Born to Be Alive LET'S DANCE, Patrick Hernandez // Born to Be Alive LET'S DANCE,

Ghé Bến Sài Gòn (Văn Phụng)


Ghé Bến Sài Gòn (Văn Phụng) Mỹ Lan, Phương Loan, Jenny Loan, Henry Chúc, Chí Tài, Chí Thiện, Nhất Lý

The House of the Rising Sun


The House of the Rising Sun, "The House of the Rising Sun" is a traditional folk song, sometimes called "Rising Sun Blues". It tells of a person's life gone wrong in the city of New Orleans. Many versions also urge a sibling or parents and children to avoid the same fate. The most successful commercial version, recorded in 1964 by the British rock band the Animals, was a number one hit on the UK Singles Chart and in the US and Canada.[1] As a traditional folk song recorded by an electric rock band, it has been described as the "first folk rock hit".[2][3]

Thầy Thích Pháp Hòa thuyết giảng A Di Đà Phật 🙏🙏🙏


Thầy Thích Pháp Hòa thuyết giảng A Di Đà Phật 🙏🙏🙏, #phatphapvadoisong, #adidaphat, #phatphap,

Thầy Thích Pháp Hòa chia xẻ ở Thái Lan ?


"Quê hương tôi đất rộng, cò bay thì được tôi về thì không" thầy Thích Pháp Hòa chia xẻ ở Thái Lan khi được hỏi vì sao thầy không về VN thuyết pháp?

Một Đời Yêu Em (Trần Thiện Thanh) — Nhật Trường


Một Đời Yêu Em (Trần Thiện Thanh) — Nhật Trường | MV Gốc Nhạc Xưa Hải Ngoại,

Những tượng đài ở Little Saigon, tấm lòng tri ân đáng quý của cộng đồng


Những tượng đài tưởng niệm ở Little Saigon được dựng lên như thế nào? Nhà báo Mặc Lâm đã thực hiện bài phóng sự video với cuộc phỏng vấn những nhân vật cựu trào ở Bolsa, trong đó có nhà báo kỳ cựu Du Miên và nhà báo Đặng Phú Phong, để được nghe kể nhiều chi tiết thú vị ít được nhắc đến.

Mời quý vị cùng xem.

(Chúc bạn cuối tuần vui vẻ) Thật tuyệt vời!

(រីករាយកំសាន្តចុងសប្តាហ៍) ពិតជាពូកែអស្ចារ្យមែន!, (Chúc bạn cuối tuần vui vẻ) Thật tuyệt vời!, tuyệt vời .ko thể diễn tả đc sự kỳ lạ này

Điệu bộ khiêu vũ Độc Lạ

Điệu bộ khiêu vũ Độc Lạ😅,Đừng bao giờ mất tiền nếu ta chưa hiểu, học khiêu vũ thế nào? Nên bắt đầu ra sao? Điều cần biết 😄😄.

Tham nhiều khổ nhiều Nam mô a Di Đà Phật 🙏🙏🙏


Tham nhiều khổ nhiều 🙏🙏🙏 Nam mô a Di Đà Phật 🙏🙏🙏🙏🙏

Thời buổi này dễ bị điên lắm. 🤣🤣


Thời buổi này dễ bị điên lắm. 🤣🤣🤣. Người điên thì kệ họ . Cũng thèm nổi tiếng được nhiều người biết mà .

Saigon 1970 - đường Hồng Thập Tự gần tới ngã tư Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Cầu bộ hành từ bùng binh Quách Thị Trang bắc qua chợ Sài Gòn (1969), Cầu bộ hành từ bến xe buýt qua chợ,
Saigon 1970 - đường Hồng Thập Tự gần tới ngã tư Nguyễn Bỉnh Khiêm. đường Hồng thập tự trước kia giờ là đường Nguyễn Thị Minh khai,

SAU KHI CHẾT SẼ ĐI VỀ NƠI ĐÂU. PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG


SAU KHI CHẾT SẼ ĐI VỀ NƠI ĐÂU. PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG THUYẾT GIẢNG 🙏🙏🙏, Nam mô a di đà phật,

Thư giãn cuối tuần !!!

Thư giãn cuối tuần !, 😍 😍 😍, Thư giãn cuối tuần !, 😍 😍 😍,

Ra mắt sách ‘Bức Tử VNCH, Kissinger và 8 Thủ đoạn nham hiểm’ ở Little Saigon


Hơn 300 cư dân gốc Việt ở miền Nam tiểu bang California có mặt tại buổi ra mắt tác phẩm ‘Bức tử VNCH, Kissinger và 8 thủ đoạn nham hiểm’ của Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng trưởng Kế hoạch và Phát triển của VNCH kiêm phụ tá tái thiết cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ năm 1973-1975. Buổi ra mắt sách được tổ chức hôm 5 tháng 5, 2024 tại thành phố Westminster ở Little Saigon.

Tác phẩm 655 trang với hơn 30 trang phụ lục chi tiết những tài liệu, sách tham khảo, những kho lưu trữ cùng các nghiên cứu về tài liệu riêng của tác giả, tài liệu giải mật và các văn thư trao đổi tối mật của hai chính phủ Mỹ và VNCH.

Tác giả Nguyễn Tiến Hưng cho biết tác phẩm đào sâu những sự kiện quan trọng từ các hồi ký từng được xuất bản trước đây của ông, gồm ‘Khi đồng minh tháo chạy (2005), Tâm tư Tổng thống Thiệu (2010) và ‘Hồ sơ mật Dinh Độc Lập (1986), kết hợp với những đối chiếu, so sánh với các sự kiện lịch sử hiện tại như cuộc chiến Nga-Ukraine, quan hệ Mỹ-Trung, và các biến chuyển thời sự mới nhất như khủng hoảng ở Biển Đông và căng thẳng ở Đông Nam Á.

Đặc biệt, với tư cách chứng nhân lịch sử đang sống, ông nhấn mạnh cuộc họp báo của ông với truyền thông Mỹ ở khách sạn May Flower vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 với mục đích mà ông gọi là tố cáo sự thất hứa của chính phủ Mỹ, nhưng rồi quyết định thay đổi đề tài, thành “cứu vớt đồng bào tị nạn” thay vì “vay viện trợ” như mục đích ban đầu.

NGUYỄN TIẾN HƯNG, Tác giả
Tôi họp ngày 30 thì ngày mùng 1 báo chí đăng, quốc hội họp lại, ngày mùng 8 tháng 5 thì Senator Biden là một trong tất cả các quý vị ở thượng viện bỏ phiếu chào đón người tị nạn, resolution S.148. Đó là một, cái thứ hai nữa là đến ngày 23 tháng 5 thì lại có đạo luật Indochina refugees acts, mà chấp nhận 455 triệu để cứu đồng bào tị nạn. Tôi chỉ là cái loa. Đây là tiếng nói của Việt Nam Cộng Hoà, đây là lời nói cuối cùng trước khi tắt thở.

Tác giả cho rằng “cái chết của Việt Nam Cộng Hoà là không thể nào tránh khỏi.” Ngay từ trang bìa của quyển sách, ông khẳng định Henry Kissinger, nguyên ngoại trưởng và là cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ, đã đi đêm với Đại sứ Liên Xô 130 lần năm 1972 mà không ai biết.

Bà Jackie Bông, vợ goá của Giáo sư Nguyễn Văn Bông, một chính khách VNCH, cho biết ông Kissinger từng xin lỗi riêng với bà về việc “Mỹ bỏ rơi VNCH.”

JACKIE BÔNG, Cư dân Little Saigon
Tôi có gặp ông Kissinger nhiều lần ở bên Việt Nam, cũng như là ở bên ngoại quốc, khi chúng tôi có một buổi tiệc để đãi ông Kissinger ở Brazil, 1995, thì ổng có nói là có gặp tôi, ổng nhớ và ổng có nói là “I’m sorry, the US abandoned Việt Nam.” Đó là lần đầu tiên mà ổng chấp nhận là ổng đã betrayed, ổng đã bỏ Việt Nam.

Ông Kissinger chưa bao giờ công khai nói Mỹ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa trước công chúng và cũng không có tài liệu cho thấy ông công nhận điều này với bất cứ ai.

Tác giả Nguyễn Tiến Hưng cho biết ông sẽ có nhiều buổi nói chuyện khác về tác phẩm này sắp tới tại Hoa Kỳ trong năm nay.---

VOA Tiếng Việt - Cập nhật thông tin trung thực, đa chiều về tình hình Việt Nam, quốc tế. Tin tức Biển Đông. Phóng sự đặc biệt về nhiều đề tài: khoa học-công nghệ, chính trị, giáo dục, đời sống, xã hội, kinh tế, sức khoẻ, văn hoá, giải trí… Hỏi đáp trực tiếp 🙋 qua Facebook Live https://bit.ly/3f603Y4 và YouTube Live https://bit.ly/3D1eHwi với khách mời VOA xoay quanh các chủ đề y học, du học Mỹ, di trú Mỹ, kinh tế, khoa học, thực phẩm, môi trường. Bàn Tròn Chuyên Đề. Hội Luận Thứ Năm.

Casablanca Nhạc ngoại lời Việt Thiên Kim

Casablanca (Nhạc ngoại lời Việt) Thiên Kim,
Cô bé ca sĩ Thiên Kim này có giọng hát khàn khàn nghe rất dễ thương Còn khi trình bày nhạc ngoại Quốc dịch lời Việt có thể hiện không hay mấy nhưng đặc biệt nhạc Việt Nam có thể hiện rất chuẩn rất hay và rất rất rất đáng cho chúng ta lưu ý mỗi khi thưởng thức.

Kỷ lục Guinness thế giới Gurn vĩ đại nhất


Greatest Gurn - Guinness World Records, Gratuitous gurning from China's Shuquan Tang and his fabulously flexible face

Đại Lộ Trần Hưng Đạo SaigonTrước 1975

Đường Tự Do - Sài Gòn 1970
Tu Do Street - Saigon South Vietnam 1968
Saigon 1969 Không Biết Ở Đâu ?.
Saigon 1961.
Hình rất xưa, chụp tại Sài Gòn năm 1961. Có lẽ đây là chiếc xe bán sinh tố và giải khát đẹp nhất đô thành thời bấy giờ.
Vào thời đó, tụi nhỏ chúng tôi không chỉ thích uống sinh tố mà còn thích trái cây cắt nhỏ như mấy hột xí ngầu, trộn với đá bào để giữ cho lạnh.
Ảnh phục chế
By Thái Sơn.
Bánh Mì Sai gòn Trước Năm 1975.
“Bánh mì đã xuất hiện ở xứ ta trước cái mốc 1859, nhưng được biết đến nhiều là sau khi đội quân viễn chinh chiếm thành Gia Định. Ngoài người Pháp, cách làm bánh mì đầu tiên được người Hoa tiếp thu, sản xuất bán ra thị trường và trong số khách hàng mua bánh mì thời kỳ đó có cả người Việt: Bồi bàn, thông ngôn, thầy ký có lẽ là những người nếm bánh mì đầu tiên; Kế đó là công chức tân trào, rồi đến tầng lớp Tây học, thị dân và lần lần tỏa rộng phổ biến cả thành thị lẫn nông thôn” – Huỳnh Ngọc Trảng.
Đại Lộ Trần Hưng Đạo Saigon Trước 1975 🌷
Đại Lộ Trần Hưng Đạo Saigon Trước 1975

ĐI TÌM SỰ THẬT VÊ DANH HIỆU “ĐẤU CHIẾN THẮNG PHẬT”

ĐI TÌM SỰ THẬT VÊ DANH HIỆU “ĐẤU CHIẾN THẮNG PHẬT” TRONG HỒNG DANH BẢO SÁM VÀ TRUYỆN TÂY DU KÝ

Một hôm tình cờ lang thang trên mạng, tôi bắt gặp một bài đăng trên website nguyenthuychonnhu.net trích từ cuốn sách tên NHỮNG LỜI GỐC PHẬT DẠY; bài viết trích dãn kinh số 10, Mahànàma – thuộc Tăng chi bộ (Anguttara Nikya). Điều đó sẽ rất bình thường nếu như không có đoạn phê bình về Hồng Danh Bảo Sám (mà tác giả gọi là “kinh Đại thừa”) lấy danh hiệu của một vị Phật hư cấu từ truyện Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân đưa vào một trong số 89 danh hiệu Phật (tức danh hiệu Đấu Chiến Thắng Phật vị trí số 84). Xin trích nguyên văn: “Đấu Chiến Thắng Phật tức là Tôn Hành Giả, Tôn Hành Giả còn có tên là Tề Thiên Đại Thánh. Tề Thiên Đại Thánh là một loài khỉ đột, nhà tiểu thuyết tưởng tượng ra chứ không có thật, thế mà các Tổ Sư Đại Thừa xem đó là có thật nên biên soạn kinh Sám Hối Hồng Danh ghi tên thầy trò Đường Tăng vào để bắt Tăng, Ni và nam nữ cư sĩ niệm Hồng danh các vị ấy và lạy mòn đầu gối. Thật là buồn cười cho quý Tăng, Ni và cư sĩ u mê, ngu si bị lừa đảo mà không hay biết bị lừa đảo”.

Vừa đọc xong tôi hoang mang, vì xưa nay tôi vẫn tôn kính vị này như một bậc chân tu đạo hạnh, nhưng sao lại có những phát ngôn vô căn cứ như vậy. Tôi nhớ không lầm, người tạo ra Hồng Danh Bảo Sám là pháp sư Bất Động, Ngài còn được tôn xưng là Mông Sơn Cam Lộ Pháp sư mà tăng ni ai cũng biết danh bởi Ngài cũng chính là tác giả của bài Mông sơn thí thực ở các chùa tụng đọc hằng ngày vào buổi công phu chiều. Khi còn là tiểu, tăng ni đều phải học qua Nhị khóa hiệp giải và nhớ rõ Pháp sư Bất Động sinh ở thời Bắc Tống, nước Tây Hạ (lúc bấy giờ thuộc về Tống). Thời Tống bắt đầu từ Tống Thái Tổ năm 960 và kết thúc vào năm 1279. Còn Tây du ký là truyện của Ngô Thừa Ân sau Hồng danh bảo sám đến 5 thế kỷ, hỏi làm sao có thể lấy tên Phật hư cấu của Tây du ký đem vào HDBS? Ngô Thfwa Ân tự Nhữ Trung (汝忠), hiệu Xạ Dương sơn nhân (射陽山人), là một nhà văn, nhà thơ Trung Quốc, sống trong thời nhà Minh (ông sinh khoảng năm 1500/1506 và mất năm 1581). Ngô Thừa Ân đã viết truyện Tây Du Ký nhằm biểu lộ sự bất mãn trước cảnh thối nát chốn quan trường lúc bấy giờ. Chính nhà thơ Lỗ Tấn và Lục Tiểu Linh Đồng, người đóng vai Tôn Ngộ Không đều xác nhận tác phẩm nổi tiếng đó là của Ngô Thừa Ân.

Thiết nghĩ, qua niên đại ra đời của Hồng danh bảo sám và Tây du ký đã cho chúng ta thấy câu “Nam mô Đấu Chiến Thắng Phật” là lấy từ Tây Du Ký hay ngược lại.

Thế chẳng lẽ một người đáng kính như thầy ấy lại nói sai? Và vị đó làm như vậy với mục đích gì? Điều đó khiến tôi thắc mắc và tìm đến vài quyển sách khác cùng tác giả để xem như “Đường về xứ Phật”, “Tạo duyên giáo hóa chúng sanh” v.v…Đặc biệt trong số đó có cuốn tên “Mười giới đức Thánh sa-di”. Trong đó có những đoạn miệt thị kinh Đại thừa như kinh Kim Cang (Kim Cương)…và xúc phạm những Hòa thượng đạo cao đức trọng (!). Người viết xin trích nguyên văn.

“Khi nói sai một điều gì là có nói láo. Như trong kinh Kim Cang dạy: “Bồ Tát độ hết chúng sanh thì thành Phật” có nghĩa là một người tu tập hết vọng tưởng thì thành Phật. Lời dạy trong kinh này là nói láo. Vì khi hết vọng tưởng thì tâm sẽ rơi vào trong “Không”, chứ không thành Phật. Chính Phật là chỗ tâm VÔ LẬU, tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, chứ không phải tâm không niệm, tâm vô phân biệt, tâm vô trụ v.v….

“Trong Tâm Kinh Bát Nhã dạy: “Quán Tự Tại hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không”.Lời dạy như vậy là “nói láo”, vì chưa thấy ai quán chiếu ngũ uẩn giai không được. Tổ Sư Tử chết oan vì lời nói láo này. Trong các chùa ngày đêm bốn thời công phu khuya sớm đều tụng Tâm Kinh Bát Nhã mà chưa có thấy vị nào thoát khổ. “Độ nhất thiết khổ ách”, nghĩa là không còn khổ đau nữa, như vậy kinh này nói láo” (Trích Mười giới đức Thánh sa di)

Tôi không thấy kinh luận nào nói (hay chú giải) câu “Độ hết chúng sanh…” là “hết vọng tưởng cả”. Ngay cả các Tổ Thiền tông cũng không hề nói như vậy. Thế mà vị ấy tự giải thích rồi tự phản bác, lại gán ý đó là của kinh Đại thừa. Điều đó khiến cho người xem cảm thấy nghi ngờ trình độ hiểu biết về Đại thừa của vị này.

Ở đoạn sau càng khiến người đọc hoang mang hơn nữa…?! Tôi không dám đưa ra lời nhận xét, e rằng sẽ mạo phạm đến một bậc chân tu. Tuy nhiên, về nhận xét khách quan, quan điểm của vị này đã tạo ra hai hiệu ứng tích cực và ít nhất hai hiệu ứng tiêu cực.
Hai hiệu ứng tích cực:

Một, thầy nêu gương đời sống phẩm hạnh, gìn giữ giới luật trong hàng Tăng sĩ, làm mô phạm cho tứ chúng. Thày bày tỏ chí nguyện dựng lại Chánh pháp trong thời đại công nghệ số và chủ nghĩa vật chất đang có sức lôi cuốn người tu trẻ. Chính thiện chí đó đã tạo nên sự phấn khích cho một số người.

Hai, thầy đả phá những hình thức mê tín, một hiện tượng trở thành nỗi nhức nhối bám chặc và làm khô héo tàng cây bồ đề. Lời cảnh tỉnh của thầy sẽ gióng lên hồi chuông thức tĩnh lòng người để nhìn lại tình trạng Phật giáo hiện nay nhằm làm tốt hơn cho Phật giáo ngày mai nếu…Nếu thầy đừng cố ý mượn hình ảnh ấy để bôi xấu Đại thừa. Và điều đó sẽ tốt đẹp biết bao, tự hào biết bao khi trong hàng ngũ Phật giáo có thêm những con người gương mẫu đạo hạnh như thầy! Nhưng…
Hai hiệu ứng tiêu cực:

Một, khiến cho tăng ni, cư sĩ và những người chưa hiểu về Đại thừa quay lưng chống phá, huỷ báng tư tưởng Đại thừa, tạo nên sự suy yếu không thể tránh khỏi trong thực thể Phật giáo. Ai cũng hiểu rằng, Phật giáo du nhập vào VN trên 2.000 năm, đã góp phần tạo nên thế đứng của Tổ quốc. Những nhà sư lỗi lạc như Đỗ Thuận, Khuôn Việt, Vạn Hạnh, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông… đã làm rạng danh những trang sử vàng của dân tộc. Họ là những Quốc sư, Thiền sư xuất thân học đạo từ những ngôi chùa thuộc Đại thừa đấy. Phật giáo VN xuyên suốt hàng ngàn năm tồn tại và phát triển cũng dựa trên nền tảng của Phật giáo Đại thừa. Phá bỏ Đại thừa là phá bỏ cả một nền móng của PGVN. Liệu như vậy, phần còn lại của Phật giáo sẽ đi về đâu?

Hai, tạo cơ hội cho những thế lực, tổ chức muốn tiêu diệt Phật giáo sẽ khai thác triệt để vào điểm yếu này để kích động cho hai bên chống phá nhau và họ chỉ ngồi đó mà hưởng “Ngư ông đắc lợi”. Chúng ta cứ vào các trang Facebook, YouTube hiện nay sẽ thấy rõ điều đó.
Thiết nghĩ, Đại thừa hay Nguyên thủy đều không có lỗi, lỗi do người không hiểu dẫn đến thực hành không đúng mà thôi. Những nước theo PG Nguyên thủy vẫn tồn tại những hình thức mê tín từ trong các nhà chùa, thế ta có nên gán ghép cho là do Phật giáo Nguyên thủy tạo ra không?

Xin mượn lời của Đức Đạt lai Lạt ma 14 để kết thúc bài này: “Mục đích lớn lao trong cuộc đời này chính là giúp đở người khác…Và nếu không thể giúp người, ít ra cũng đừng hại họ”. Chúng ta đừng nên vô tình hay cố ý buông những lời nói tổn hại để rồi để lại hậu quả cho cả một thế hệ hôm nay và mai sau phải gánh chịu.